Doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm thực hiện những hoạt động nào sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản?
Doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm thực hiện những hoạt động nào sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản?
Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tự do quyết định các giao dịch và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, đảm bảo không có sự can thiệp trái pháp luật từ bên ngoài. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, một số giao dịch có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của các chủ nợ. Đặc biệt, các giao dịch này thường nhằm mục đích tẩu tán tài sản, lừa đảo hoặc lợi dụng pháp luật để chiếm đoạt tài sản, gây bất lợi cho quá trình xử lý phá sản. Để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và đảm bảo sự minh bạch trong quá trình giải quyết phá sản, Luật Phá sản năm 2014 đã quy định cụ thể tại Điều 48 các trường hợp giao dịch bị cấm khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản như sau:
“Điều 48. Hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản
1. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau:
a) Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản;
b) Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại điểm c khoản 1 Điều 49 của Luật này;
c) Từ bỏ quyền đòi nợ;
d) Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Giao dịch quy định tại khoản 1 Điều này là vô hiệu và xử lý theo quy định tại Điều 60 của Luật này.”
Như vậy, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, để tránh việc doanh nghiệp trốn tránh nghĩa, bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ và những người có liên quan, pháp luật đã quy định cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau:
1. Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản
Giao dịch tặng cho tài sản là loại giao dịch đi ngược với mục tiêu lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, bởi chúng không mang lại bất kỳ lợi ích vật chất nào cho doanh nghiệp. Đặc điểm nổi bật của giao dịch này là việc chuyển quyền sở hữu tài sản mà không nhận lại giá trị tương xứng. Thông thường, các giao dịch tặng cho có thể được ngụy trang dưới hình thức đóng góp phúc lợi, tài trợ dự án từ thiện, hoặc hỗ trợ các đối tượng thân thiết với người điều hành hay chủ doanh nghiệp, nhằm che giấu mục đích thực sự.
Hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản bao gồm việc che đậy tài sản hoặc thực hiện các giao dịch giả tạo nhằm chuyển dịch tài sản ra khỏi quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp. Các giao dịch như mua bán, tặng cho hoặc chuyển nhượng thường được sử dụng để thực hiện hành vi này, với mục tiêu chính là chiếm đoạt tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý.
2. Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm
Hành vi này làm mất đi sự công bằng giữa các chủ nợ, gây thiệt hại đến các chủ nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
3. Từ bỏ quyền đòi nợ
Quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản phát sinh giữa hai chủ thể của giao dịch dân sự gồm bên có quyền và bên có nghĩa vụ trả nợ. Theo đó, bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ hoặc có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán nợ cho mình. Dưới góc độ quy định của luật, quyền đòi nợ được hiểu là một loại quyền tài sản được quy định tại Khoản 2 Điều 450 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, căn cứ theo Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền đòi nợ đã đủ căn cứ để được xem là một loại tài sản, theo đó, đối tượng của quyền đòi nợ là một khoản tiền thanh toán nhất định và từ đó sẽ tồn tại hai chủ thể là bên có quyền đòi nợ và bên có nghĩa vụ trả nợ. Khi doanh nghiệp từ bỏ quyền đòi nợ có nghĩa là từ bỏ phần tài sản đó. Đây là chủ ý của doanh nghiệp nhằm ưu ái một hoặc một vài chủ nợ so với các chủ nợ khác trong quan hệ phá sản. Hành vi này khiến tài sản doanh nghiệp bị suy giảm, đồng thời làm mất đi sự công bằng giữa các chủ nợ.
4. Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
- Khoản nợ không có bảo đảm có thể được hiểu là khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản hiện vật của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba.
- Khoản nợ có bảo đảm là khoản nợ được bảo đảm thanh toán bằng tài sản của doanh nghiệp, người thứ ba.
Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là hành vi nhằm tẩu tán tài sản dưới dạng giải quyết nợ. Số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong nhiều trường hợp không còn đủ để thanh toán toàn bộ số nợ và chúng sẽ được phân chia công bằng cho các chủ nợ dựa trên tỷ lệ nợ và loại nợ. Nhưng khi doanh nghiệp đã thế chấp tài sản của mình với các khoản nợ, vô hình chung con nợ được coi là đã trả toàn bộ số nợ đó.
Việc chuyển những khoản nợ không có đảm bảo thành những khoản nợ có đảm bảo sẽ dẫn đến thứ tự ưu tiên trả nợ bị đảo lộn. Những chủ nợ mà trước đây không có bảo đảm sẽ có thứ tự ưu tiên trả nợ sau những chủ nợ đã có bảo đảm nay sẽ ngang hàng với những chủ nợ có bảo đảm, và như vậy sẽ dẫn đến sự mất công bằng đối với những chủ nợ không có bảo đảm khi mà giá trị của khối tài sản phá sản để trả nợ cho những chủ nợ không có bảo đảm sẽ bị giảm sút.
Như vậy, những giao dịch trên và cả những hành vi bị cấm đều mang tính chất làm giảm giá trị khối tài sản cả doanh nghiệp, hợp tác xã và gây thiệt hại đến các chủ nợ. Các hành vi trên hướng khối tài sản phá sản sang giải quyết các nghĩa vụ tài sản khác ngoài mục tiêu chính là tập trung tài sản giải quyết chung và công bằng cho tất cả các chủ nợ. Bên cạnh đó, chúng còn làm giảm quyền, tăng nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, từ đó làm giảm khối tài sản phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã sở hữu trong tương lai và tạo gánh nặng cho chính doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, gây rào cản cho việc phục hồi kinh doanh. Với mục tiêu bảo đảm giá trị khối tài sản phá sản, pháp luật xét các hành vi nhạy cảm này đều vô hiệu, bảo toàn quyền lợi cho các chủ nợ và cơ hội phục hồi cho doanh nghiệp, hợp tác xã có thể tiếp tục kinh doanh.